Có rất nhiều điều đầu tiên trong ngành đồng hồ. Nghiêm túc mà nói, mỗi năm chúng ta đều chứng kiến một loạt các ‘lần đầu tiên trên thế giới’ ngày càng nhiều lên, từ những thứ dễ dàng như sự kết hợp vật liệu chưa từng thấy cho đến các biến thể kết hợp các cơ chế phức tạp tạo nên 1 sản phẩm đồng hồ cao cấp. Mặc dù chúng đều ần tượng nhưng lại không để lại dấu ấn rõ ràng trong lịch sử chế tác đồng hồ.
Trên thực tế, mặc dù có rất nhiều phát minh ‘lần đầu tiên’ nhưng những phát minh thực sự có tác động lớn lại không xảy ra thường xuyên. Chúng dường như chỉ là những tinh chỉnh nhỏ và vẫn kế thừa những di sản trước đó. Vì vậy, Nostimevie muốn cùng các bạn bàn luận đến một phát minh có thể coi là một trong những phát minh quan trọng nhất trong lịch sử chế tác đồng hồ: Đồng hồ tự động (Automatic)
Hầu hết các đồng hồ hiện đại ngày nay đều là đồng hồ tự động. Nếu bạn đọc đến đây thì có thể bạn cũng đã biết nó là gì, vì vậy tôi sẽ nói ngắn gọn: đó là một loại bộ máy đồng hồ không cần lên dây. Bạn có thể sử dụng núm vặn để lên dây cót cho chúng, nhưng chúng sẽ lấy phần lớn năng lượng bằng hệ thống lên cót tự động sử dụng rotor chuyển động khi chúng ta đeo chúng trên cổ tay. Vậy thì ai đã sáng tạo ra cơ chế này?
Chúng ta có đến hai câu trả lời (và rất nhiều mốc thời gian) cho câu hỏi này. Cơ chế tự lên dây cót đầu tiên được cho là của Abraham-Louis Perrelet vào năm 1777. Đây thực sự là cơ chế tự động đầu tiên, một một bộ máy mà theo lý thuyết sẽ hoạt động liên tục từ khi nó bắt đầu chạy, sử dụng cơ chế barrel remontoire.
Vấn đề là nó được ứng dụng cho đồng hồ bỏ túi, thứ mà đa số thời gian nằm im trong túi áo. Điều này đồng nghĩa với việc nó sẽ không thể tự động tích đủ cót, cộng với việc sản xuất nó rất tốn kém vì thế nó chưa bao giờ thực sự thành công.
Đến những năm 1800, bộ máy tự động của Perrelet đã không được những người yêu thích đồng hồ bỏ túi sử dụng, và phải hơn một thế kỷ sau, một phát minh tương tự mới xuất hiện.
Cơ chế lên cót bẳng rotor như chúng ta biết được John Harwood chế tạo vào năm 1922. Phát kiến này sinh ra khi ông quan sát đám trẻ con chơi bập bênh, và nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong ngành chế tạo đồng hồ hiện đại. Thiết kế của Harwood sử dụng cơ chế lên cót bằng cách cho Rotor va vào lò xo ở 2 phía tạo chuyển động qua lại 1 góc 270°. Nhà sản xuất đồng hồ người Anh này đã thử nghiệm trên một chiếc đồng hồ bỏ túi để thử nghiệm trước khi mang nó đến Thụy Sĩ và sau đó nhận được bằng sáng chế cho chiếc đồng hồ đeo tay tự lên dây vào năm 1924.
Hai năm sau, bộ máy này được FORTIS sản xuất hàng loạt và ứng dụng trong một mẫu đồng hồ được đặt tên là HARWOOD Automation. Vào năm 1928, Harwood thành lập công ty riêng của mình để sản xuất những bộ máy có thiết kế này. Sau đó Rolex bắt đầu tham gia cuộc chơi.
Năm 1931, Rolex cho ra mắt cơ chế lên dây cót với rotor quay 360° ưu việt trên Oyster Perpetual. Và nó được coi là dạng máy automatic hoàn thiện nhất từ đó đến nay. Đó phần lớn là lý do tại sao Rolex đôi khi được ghi nhận là hãng làm ra những bộ máy tự động đầu tiên, làm dấy lên những bất đồng trong thế giới đồng hồ. Một điều không thể chối cãi là bộ máy của Rolex tốt hơn , nhưng vào năm 1956, Rolex đã xin lỗi vì đã nhận mình tạo ra cỗ máy tự động đầu tiên và đính chính ghi nhận lại điều này cho Harwood.
Kể từ đó về sau cũng có một vài biến thể đồng hồ tự động, chẳng hạn như hệ thống Pellaton của IWC, nhưng nhìn chung nó giống với các thiết kế ban đầu của Harwood, hay rotor 360° của Rolex. Phiên bản đồng hồ bỏ túi của Abraham-Louis Perrelet vẫn ghi dấu ấn về mặt lịch sử và đặt nền móng cho khái niệm này, nhưng khi nói đến ai đã tạo ra bộ máy tự động phù hợp đầu tiên thì đó là John Harwood.